Điện thoại và linh kiện là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam trong năm 2023

Ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam trong năm 2023 có xu hướng tăng trưởng hiệu quả

Công nghiệp điện tử là ngành sản xuất có vị trí then chốt trong nền kinh tế và tác động lan tỏa mạnh mẽ đến các ngành công nghiệp khác. Ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam chủ yếu sản xuất sản phẩm như điện thoại các loại, máy tính bảng, bo mạch chủ, màn hình, tivi, camera, thiết bị máy văn phòng và các sản phẩm quang học…Trong những năm qua, nhờ tốc độ tăng trưởng ấn tượng, nhóm hàng điện thoại và linh kiện đã vươn lên trở thành nhóm hàng coa kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam kể từ năm 2013.

Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại và linh kiện chỉ đạt 2,3 tỷ USD, chiếm 3,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (khi đó hàng dệt may giữ vị trí dẫn đầu, đạt 11,2 tỷ USD, tỷ trọng chiếm 15,5%). Trong suốt giai đoạn 2011 đến 2021, nhóm hàng điện thoại và linh kiện liên tục đạt tốc độ tăng cao.

Tốc độ tăng lần lượt các năm là: 2011 tăng 177,2%; năm 2012 tăng 99,3%; năm 2013 tăng 66,7%; năm 2014 tăng 10,9%; năm 2015 tăng 28,3%; năm 2016 tăng 14,1%; năm 2017 tăng 32,2%; năm 2018 tăng 8,6%; năm 2019 tăng 4,9%; năm 2020 giảm 1,5% do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, năm 2021 tăng 12,4%. Bình quân cả giai đoạn 2011-2021 tăng 34%.

Tốc độ tăng nhóm hàng điện thoại và linh kiện giai đoạn 2011-2021

Đặc biệt, trong thời gian 4 năm từ 2010 đến 2013, giá trị kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng điện thoại và linh kiện tăng 9,2 lần, đưa nhóm hàng này chính thức trở thành nhóm hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhất và duy trì vị trí này liên tục từ 2013 đến nay.

Năm 2013, giá trị xuất khẩu nhóm hàng điện thoại và linh kiện đạt 21,3 tỷ USD, chính thức vượt qua mặt hàng dệt may (giá trị xuất khẩu đạt 17,9 tỷ USD) để trở thành nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Đến năm 2021, mặc dù nền kinh tế chịu ảnh hưởng lớn của dịch Covid-19 nhưng nhóm hàng này vẫn đạt tốc độ tăng cao và ổn định vững chắc, giá trị xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, ước đạt 57,5 tỷ USD, tỷ trọng chiếm 17,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Trong 11 tháng năm 2022, có 8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 70,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó: Điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 55,4 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả trên, nhóm hàng điện thoại và linh kiện tiếp tục giữ vững vị trí là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 16,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 11 tháng năm 2022.

Kim ngạch xuất khẩu hàng điện thoại và linh kiện của các thị trường chủ yếu đều đạt tốc độ tăng cao. Kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc ước đạt 13,2 tỷ USD, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc ước đạt 4,4 tỷ USD, tăng 10,8%.

Để thúc đẩy ngành công nghiệp điện tử phát triển nhanh, bền vững, cần xác định rõ chiến lược phát triển của ngành; trong đó, chú trọng tới việc xác định sản phẩm cốt lõi, có sức đột phá.

Công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó cần có kế hoạch phát triển dài hạn, có sự quan tâm đầu tư, xem xét ưu đãi hỗ trợ đầu tư đối với các doanh nghiệp; hỗ trợ cho các công đoạn nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm sản phẩm và các chương trình xúc tiến thương mại; rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là quy định cụ thể về hàng hóa xuất xứ Việt Nam; thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.

 

CPI bình quân 11 tháng tăng 3,02%, tương đương cùng kỳ các năm 2018-2021. Sức cầu tiêu dùng trong nước tăng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước.

Du lịch phục hồi nhanh, khách quốc tế 11 tháng đạt gần 3 triệu lượt người, gấp 21,1 lần so với cùng kỳ năm trước.

Cùng với đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục phục hồi. Đăng ký doanh nghiệp tiếp tục khởi sắc, số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường 11 tháng đạt gần 195.000 doanh nghiệp, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 40,5%.

Cũng theo Thứ trưởng Bộ KH&ĐT, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng, các cơ quan liên quan đã triển khai nhiều giải pháp, tập trung và kịp thời tháo gỡ, xử lý các vấn đề mới phát sinh, nhất là liên quan đến hệ thống ngân hàng, các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán, bất động sản.

Ngoài ra, công tác chăm lo, phát triển văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống người dân được thực hiện tốt; quốc phòng an ninh được bảo đảm, hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh; công tác đối ngoại được triển khai chủ động, tích cực, linh hoạt, hiệu quả, bảo đảm ứng xử phù hợp với các diễn biến tình hình thế giới, khu vực.

Áp lực từ yếu tố bên ngoài


Bên cạnh những kết quả đạt được, tính riêng trong tháng 11, trước áp lực rất lớn của bối cảnh biến động phức tạp, khó lường của thế giới, gây thêm khó khăn đối với tình hình trong nước, một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội, lĩnh vực, thị trường có dấu hiệu chững lại hoặc giảm so với tháng trước, mặc dù tính chung cả 11 tháng vẫn duy trì ở mức tích cực.

Cụ thể: Sản xuất công nghiệp, xuất khẩu có dấu hiệu chậm lại. Thị trường tài chính, tiền tệ, ngân hàng đối mặt với áp lực ngày càng tăng do chính sách tiền tệ thắt chặt và tăng lãi suất để giảm lạm phát của FED và nhiều ngân hàng quốc gia, nhất là ở các đối tác kinh tế quan trọng tạo sức ép rất lớn lên tỷ giá, lãi suất và thị trường ngoại tệ. Tình hình cắt giảm lao động, giảm giờ làm, nghỉ việc luân phiên xuất hiện trở lại.

Đại diện Bộ KH&ĐT chỉ ra nguyên nhân lớn nhất là do tình hình thế giới rất phức tạp, khó lường, ngày càng nhiều bất ổn, thách thức, rủi ro. Kinh tế trong nước bị ảnh hưởng nặng nề do đại dịch COVID-19, cần thời gian để phục hồi, trong khi năng lực nội tại, sức chống chịu còn hạn chế, còn những vấn đề tích lũy lâu năm, bộc lộ rõ nét hơn trước tác động từ bên ngoài.

Một hạn chế nữa là công tác dự báo còn nhiều khó khăn, phản ứng chính sách của bộ, ngành trong một số trường hợp còn chậm, công tác quản lý nhà nước chưa theo kịp yêu cầu đề ra, chưa phối hợp chặt chẽ, chủ yếu nhằm giải quyết khi vấn đề đã phát sinh. Một bộ phận cán bộ thực thi còn tâm lý né tránh, sợ trách nhiệm trong triển khai công vụ.

Các bộ, ngành tập trung triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao để đẩy nhanh thực hiện 3 đột phá chiến lược; chủ động rà soát, sửa đổi các thông tư theo thẩm quyền; kịp thời trình Chính phủ sửa đổi các nghị định; tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội sửa các luật liên quan.

Các doanh nghiệp hiện cần chú ý phát triển

Đồng thời, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách vĩ mô khác trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế-xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô.

Các chính sách tài khóa, thương mại, xuất nhập khẩu và các chính sách khác, coi đây là yếu tố quyết định đến phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Bộ KH&ĐT cũng lưu ý cần theo dõi sát tình hình thế giới và việc điều chỉnh chính sách của các nước, kịp thời có đối sách phù hợp, sẵn sàng phương án điều hành khi bối cảnh thế giới thuận lợi hơn; có phương án ứng phó kịp thời với những tình huống phát sinh, nhất là lạm phát và các cân đối lớn, nguồn cung xăng dầu, vật tư chiến lược; điều tiết sản xuất, hàng hóa phù hợp, bảo đảm nguồn cung phục vụ tiêu dùng cuối năm và Tết Nguyên đán 2023.

“Khó khăn, thách thức đang ngày càng gia tăng, nhất là áp lực từ bên ngoài làm bộc lộ rõ nét hơn những vấn đề nội tại, tích tụ lâu năm của nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra là phải chủ động, quyết liệt, hiệu quả hơn để xử lý ngay, không làm tăng thêm các khó khăn, thách thức hiện thời, hạn chế tác động dây chuyền đến các ngành, lĩnh vực, động lực tăng trưởng của nền kinh tế”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh.

 

Theo Tổng cục Thống Kê

prev_doitac next_doitac